![]() |
![]() |
#1
|
|||
|
|||
![]() xin cho tôi hỏi: ông việt và bà nam kết hôn hợp pháp năm 1955 tại hà nội .trong quá trình chung sống sinh được hai người con gái là chào sinh năm 1956 và đón sinh năm 1959 .do không có khả năng sinh con nữa nên bà nam đã khuyên ông việt lấy thêm vợ khác để sinh con trai .năm 1962 được sự đồng ý của bà nam , ông việt đã lấy bà si và sinh được người con trai là gêm .từ năm 1970 , ông việt đến sống với bà si còn bà nam ở nhà một mình nuôi hai con . năm 1995 , ông việt chết có lập di chúc hợp pháp cho bà si được hưởng 2/3 di sản . khi ông việt chết bà si đã chi phí mai táng hết 8 triệu đồng bằng tài sản riêng của mình năm 2003 , chị chào và đón khởi kiện chia tài sản thừa kế của ông việt .Qua điều tra tòa án xác định : - ông việt và bà nam có tài sản chung hợp nhất trị giá 200 triệu đồng - ông việt và bà si tạo lập một ngôi nhà vào năm 1970 với giá 10 chỉ vàng (lúc đó ông việt bán con trâu là tài sản chung của bà nam được 5 chỉ , còn bà si góp 5 chỉ vàng ), ngôi nhà trên định giá 300 triệu đồng. HÃY XÁC ĐỊNH VÀ CHIA DI SẢN THỪA KẾ TRONG TRƯỜNG HỢP TRÊN. |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
#2
|
|||
|
|||
![]() cho em hỏi luôn là ông việt kết hôn với bà nam trước. rồi sau đó mới kết hôn với bà si. mà chưa li dị với bà nam. vậy tài sản của ông việt tạo lập với bà si sau này sẽ dc chia đôi với bà nam có đúng ko? căn cứ pháp lý? |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
#3
|
|||
|
|||
![]() Bài làm của mình tương đối kỹ. Hi vọng sẽ giúp được bạn. Chúc bạn học tốt.
1. Thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế: - Theo quy định tại Điều 645 BLDS 2005 quy định: Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Khoản 1 Điều 633 quy định: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Như vậy theo quy định của pháp luật thời điểm mở thừa kế trong tình huống trên là năm 1995 khi ông Việt chết. Thời hiệu khởi kiện khi ông Việt chết được tính từ năm 1995 đến năm 2005. Năm 2003 Chào và Đón khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Việt thì lúc này thời hiệu khởi kiện vẫn còn, do vậy đơn yêu cầu chia di sản thừa kế được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật. 2. Xác định di sản và chia di sản thừa kế: * Di sản thừa kế: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 27 Luật HNGĐ quy định: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. và Khoản 1 Điều 28 LHNGĐ quy định: Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Từ những quy định của LHNGĐ về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung có thể xác định: Ngôi nhà trị giá 200 triệu đồng là tài sản chung của ông Việt và bà Nam. Mặc dù ông Việt lấy bà Si được sự đồng ý của bà Ngần nhưng việc kết hôn của họ là trái với quy định của pháp luật HNGĐ. khoản 1 Điều 10 và Điều 16, 17 LHNGĐ quy định: Việc kết hôn bị cấm trong trường hợp người đang có vợ hoặc có chồng; Tòa án xem xét và quyết định việc hủy kết hôn trái pháp luật; Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc: Tài sản tiêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo sự thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên. Như vậy, theo những quy định trên thì hôn nhân của ông Việt và bà Si là trái pháp luật nên sẽ bị hủy. Ngôi nhà ông Việt mua với bà Si năm 1970 trị giá 300 triệu đều là tiền của ông Việt và bà Si bỏ ra cùng mua, mỗi người 5 chỉ vàng nên có thể coi ngôi là do 2 người chung vốn mua với nhau chứ không coi là tài sản chung, ngôi nhà sẽ được chia đôi mỗi người một nửa, Phần của bà Si là 150 triệu, phần của ông Việt là 150 triệu. Nhưng do lúc mua nhà vào quan hệ hôn nhân giữa bà Nam và ông Việt vẫn là hôn nhân hợp pháp, phần tiền mua nhà đó có được là do ông Việt bán con Trâu là tài sản chung của ông Việt và bà Nam. Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 thì tiền ông Việt mua nhà với bà Si là có trong thời kỳ hôn nhân. Do vậy 150 triệu của ông Việt được chia từ ngôi nhà mua chung với bà Si là tài sản chung của ông Việt và bà Nam. Vậy tổng tài sản chung của ông Việt và bà Nam là: 200 triệu giá trị ngôi nhà của ông Việt và bà Nam, và 150 triệu ông Việt được chia từ ngôi nhà mua chung với bà Si. Theo quy định tại Điều 28 LHNGĐ thì họ có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung nên tài sản chung của họ sẽ được chia đôi, phần của bà Nam là 175 triệu, phần của ông Việt là 175 triệu. - Theo quy định tại Điều 634 BLDS thì di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Vậy di sản thừa kế của ông Việt để lại chính là phần tài sản mà ông Việt được chia từ tài sản chung với bà Nam là 175 triệu. * Chia di sản thừa kế: Do ông Việt chết có để lại di chúc, nhưng di chúc lại không định đoạt hết phần di sản mà ông Việt để lại nên theo quy định tại Điều 646 về di chúc và theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 675 về phần di sản không được định đoạt trong di chúc thì: di sản ông Việt để lại sẽ chia theo di chúc, phần còn lại không được định đoạt trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật. Khi ông Việt chết bà Si có chi phí mai táng cho ông Việt hết số tiền là 8 triệu là tài sản riêng của bà Si. Theo quy định tại khoản 1 Điều 683 BLDS và Khoản 1 Điều 34 Pháp lệnh thừa kế 1990: Trước khi chia di sản thì thanh tóan chi phí về mai táng phí cho người đã chết. Vậy theo quy định này thì trước khi chia di sản phải thanh toán số tiền 8 triệu tiền bà Si chi phí mai táng cho ông Việt khi chết. Di sản ông Việt để lại là 175 triệu là phần được chia từ tài sản chung với bà Nam. Sau khi trừ tiền mai táng phí 8 triệu trả cho bà Si thì di sản còn lại 167 triệu. Ông Việt di chúc để lại cho bà Si 2/3 di sản, do vậy theo quy định tại Điều 646 BLDS bà Si là người thừa kế theo di chúc của ông Việt. Vậy số tiền mà bà Si được hưởng 2/3 di sản ông Việt để lại là 111,4 triệu. 1/3 di sản ông Việt để lại sẽ được chia theo pháp luật: Do hôn nhân giữa ông Việt và bà Si là trái với pháp luật, họ không được công nhận là vợ chồng nên theo quy định tại Điều 676 bà Si không thuộc diện và hàng thừa kế phần di sản không được ông Việt định đoạt trong di chúc và được chia theo pháp luật. Diện thừa kế được hưởng di sản của ông Việt theo pháp luật là dựa trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống. Theo quy định tại Điều 676 BLDS thì bà Nam là vợ hợp pháp của ông Việt; Chào, Đón và Gêm là con của ông Việt là những người đủ điều kiện được hưởng phần di sản ông Việt không định đoạt trong di chúc và được chia theo pháp luật. Họ thuộc hàng thừa kế thứ nhất và mỗi xuất thừa kế là ngang bằng nhau. 1/3 di sản ông Việt để lại là 55,6 triệu sẽ được chia đều cho 4 người là Nam = Chào = Đón = Gêm = 13,9 triệu. Tuy nhiên do ông Việt chết có để lại di chúc, mà theo quy định tại Điều 669 những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là bà Nam vợ ông Việt, bà Nam được hưởng phần di sản bằng 2/3 của một suất thừa kế chia theo pháp luật trong trường hợp họ chỉ được hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất thừa kế chia theo pháp luật. Di sản thừa kế sau khi thanh toán tiền chi phí mai táng cho bà Si là 167 triệu của ông Việt sẽ được chia đều cho 4 người là Nam = Chào = Đón = Gêm. Một suất thừa kế chia theo pháp luật sẽ là 41,75 triệu. Vậy 2/3 của một suất thừa kế chia theo pháp luật là 27,8 triệu. Bà Nam được hưởng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật, nên bà Nam sẽ được hưởng 2/3 của một suất thừa kế nếu chia theo pháp luật là 27,8 triệu. Do bà Nam được hưởng 27,8 triệu, Chào, Đón,Gêm mỗi người được hưởng 13,9 triệu, nên phần thừa kế theo di chúc của bà Si chỉ được hưởng còn lại 97,5 triệu. Kết luận: - Si: 97,5 triệu - Chào = Đón = Gêm = 13,9 triệu. - Nam = 27,8 triệu. |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
#4
|
|||
|
|||
![]() xin lỗi cho mình hỏi là tài sản của ông A là 250tr cơ mà sao bạn chia chỉ có 167tr |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
#5
|
|||
|
|||
![]() Bạn đọc kỹ lại đoạn này nhé:"Khi ông Việt chết bà Si có chi phí mai táng cho ông Việt hết số tiền là 8 triệu là tài sản riêng của bà Si. Theo quy định tại khoản 1 Điều 683 BLDS và Khoản 1 Điều 34 Pháp lệnh thừa kế 1990: Trước khi chia di sản thì thanh tóan chi phí về mai táng phí cho người đã chết. Vậy theo quy định này thì trước khi chia di sản phải thanh toán số tiền 8 triệu tiền bà Si chi phí mai táng cho ông Việt khi chết. Di sản ông Việt để lại là 175 triệu là phần được chia từ tài sản chung với bà Nam. Sau khi trừ tiền mai táng phí 8 triệu trả cho bà Si thì di sản còn lại 167 triệu".
|
![]() |
![]() |
CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI |
![]() |
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|
Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 03:12 AM |