Trở lại   Chợ thông tin Pháp luật Việt Nam > MỌI NGƯỜI CÙNG THẢO LUẬN > Thảo luận Luật Hôn Nhân và Gia Đình
Tên tài khoản
Mật khẩu


Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị

  #1  
Cũ 20-03-2013, 08:46 AM
thanhphatwood thanhphatwood đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 16
Mặc định Thủ đoạn pháp lý trên điều 27 luật HNGĐ

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Kính gửi các bạn,
Trong thực tiễn, tư tưởng "có được sau khi kết hôn là tài sản chung" đã và đang ngự trị trong suy nghĩ của đại bộ phận xã hội, cách suy nghĩ đó qua sự chứng minh của đề tài " Về tài sản chung của vợ chồng" cho thấy đó là cách nghĩ xuất phát từ tập quán tư duy của một giai đoạn lịch sử nhất định, là một suy nghĩ của giai đoạn giao thời của luật HNGĐ 1959 và luật HNGĐ 1986.
Tư tưở ng trên thực tế đã sai so với luật HNGĐ 1986 nhưng đến hôm nay vẫn đang tồn tại và gây nhiễu nhương trong xã hội. Qua phân tích, nhận thấy: thủ đoạn bóp méo QPPL để tiến hành xóa bỏ quyền sở hữu riêng hợp pháp của công dân thường được tiến hành theo phương thức:
- Đối với khoản 3 điều 5 nghị định 70-2001 CP:
Nguyên văn khoản 3 điều 5
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng; nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản, thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh.

Khoản 3 điều 5 được chuyển đổi như sau để áp dụng:
Trong trường hợp tài sản đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng; nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản, thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh.

Cách áp dụng pháp luật:
- Chuyển từ tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng thành từ tài sản
- Giữ nguyên phần trái luật của nghị định nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh

- Đối với điểm 3b nghị quyết 02-2000 HĐTP TANDTC:

Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng

Thủ đoạn thực hiện:
*Cô lập đoạn " tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân" giải thích từ "có được" với nghĩa phát sinh bất chấp điều kiện hoặc phát sinh sau khi kết hôn.
*Bỏ luôn phần giữa ( màu xanh lá), ghép chung với đoạn sau để trở thành tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng
*Sử dụng tiếp đoạn màu xanh dương trái luật

Hệ quả:
- Quyền sở hữu pháp lý thể hiện bởi giấy chứng nhận QSH bị xóa bỏ
- Buộc người có tên trên giấy chứng nhận phải chứng minh và cho rằng đó là quy định của khoản 3 điều 27, trong khi phân tích kỹ, đối tượng điều chỉnh của khoản 3 điều 27 luật HNGĐ 2000 là loại tài sản không có giấy chứng nhận và không có chứng cứ thể hiện là riêng của mỗi bên ( VD: bàn, ghế, ly, tách, tivi, tủ lạnh, máy giặt....)

Như đã phân tích, làm sao chủ tài sản có thể chứng minh được trong điều kiện mọi giao dịch bằng tiền được tiến hành trực tiếp, không hóa đơn, chứng từ, tài khoản giao dịch ?
VD: nếu có quy định
"Trong trường hợp có tranh chấp về tài sản, thì người có tên trên giấy đăng ký, có tài sản cho rằng đó là tài sản riêng của mình có nghĩa vụ chứng minh bằng cách chỉ rõ nguồn thu nhập và có chứng cứ cụ thể về việc mua tài sản, nếu không chứng minh được thì ...."
Tôi xin bảo đảm rằng, chỉ là một cái ly thôi, các nhà khoa học pháp lý tài ba cũng không thể chứng minh được.

Nhà lập pháp không có lý do gì lại dự thảo khoản 3 điều 27 với hậu quả như trên, điều mà nhiều bạn suy tư, thắc mắc có lẽ đã được tháo gỡ tại phần thảo luận "về tài sản chung của vợ chồng" và tư liệu đó được sử dụng để nhanh chóng xác định tính khách quan quyền sở hữu các loại tài sản trong quan hệ hôn nhân, đồng thời phản biện lại những hành vi, những hoạt động bóp méo quy định pháp luật để trục lợi bất chính.
Luật rất rõ ràng và trong sáng, nhưng qua sự vận dụng kết hợp với động cơ cá nhân của một số người biến chất, luật pháp đã trở nên mù mờ và gây sự ngộ nhân cho một số bộ phận xã hội về sự hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước.



Trả lời với trích dẫn


Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 08:17 AM


Diễn đàn được xây dựng bởi SangNhuong.com

© 2008 - 2025 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.