#1
|
|||
|
|||
Quyền yêu cầu thi hành án của một bên đương sự.
Với việc Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008 và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009, điều cần thiết đối với đương sự là nắm bắt được những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự về quyền yêu cầu thi hành án và cách thức thực hiện quyền yêu cầu thi hành án một cách đúng đắn và có hiệu quả. Đương nhiên, việc hiểu rõ và hiểu đúng quy định của pháp luật cũng đặt ra đối với cơ quan thi hành án dân sự để tiếp nhận và xử lý đúng các yêu cầu thi hành án của đương sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi thực hiện quyền này. - Những bản án, quyết định được thi hành theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền, phần lớn kết quả của những hoạt động đó là việc ban hành các văn bản. Văn bản có nhiều loại khác nhau, có bản án của Toà án, có quyết định của cơ quan công an, kiểm sát, có quyết định của cơ quan hành chính, có quyết định của cơ quan xét xử, có quyết định của cơ quan xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác nhau như đình chỉ xây dựng, buộc phải tháo dỡ công trình xây dựng, có bản án của Toà án nước ngoài, có bản án của Toà án hình sự về xử phạt tù dài hạn…Không phải mọi bản án, quyết định đều thuộc thẩm quyền tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự. Để yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án thì trước hết, phải nắm được quy định của pháp luật về những loại bản án, quyết định được đưa ra thi hành theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Các bản án, quyết định được quyền yêu cầu thi hành theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 phải là bản án, quyết định của Toà án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; quyết định về hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án; phần quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại. Những bản án, quyết định nói trên để được thi hành theo Luật Thi hành án dân sự phải bao gồm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng thuộc diện được thi hành ngay. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án; quyết định của Trọng tài thương mại. Bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật tức bản án của Toà án cấp sơ thẩm còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị vẫn được đưa ra thi hành là bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc và quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Như vậy, những bản án, quyết định không thuộc diện trên thì không có quyền yêu cầu thi hành theo trình tự, thủ tục do Luật Thi hành án dân sự quy định. - Những nội dung bản án, quyết định chỉ được đưa ra thi hành khi có đơn yêu cầu thi hành án của đương sự. Bản án, quyết định thuộc diện được đưa ra thi hành có nhiều nội dung khác nhau về quyền, nghĩa vụ của các bên đương sự (cá nhân, pháp nhân) đối với nhau, đối với người khác hoặc đối với nhà nước, và cách thức xử lý đối với các tài sản, vật chứng có liên quan đến từng vụ việc cụ thể như tịch thu, tiêu hủy, trả lại cho đương sự hoặc chủ sở hữu hợp pháp…Trong số những nội dung của bản án, quyết định thuộc diện trên, Luật Thi hành án dân sự phân biệt những loại việc thuộc trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự phải chủ động ra quyết định thi hành án để tổ chức thi hành và những loại việc cơ quan thi hành án dân sự chỉ được đưa ra thi hành khi có đơn yêu cầu thi hành án của đương sự. Theo quy định tại Điều 36 Luật Thi hành án dân sự thì những loại việc do cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án để tổ chức thi hành là các loại việc sau đây: “a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí; b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự; c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản; d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.” Như vậy, trong một bản án, quyết định, nếu có những nội dung trên thì được cơ quan thi hành án tự mình đưa ra thi hành, những nội dung còn lại mà liên quan đến đương sự thì đương sự phải làm đơn mới được đưa ra thi hành. Việc Luật Thi hành án dân sự quy định những nội dung trên của bản án, quyết định thuộc diện cơ quan thi hành án dân sự chủ động đưa ra thi hành xuất phát từ nhận thức rằng, những loại việc mà bản án, quyết định tuyên người được hưởng quyền lợi là nhà nước hay ngân sách nhà nước thì cơ quan thi hành án phải có trách nhiệm quan tâm, bảo vệ bằng cách chủ động đưa ra thi hành để sớm thu hồi lại tài sản, đảm bảo tài sản cho nhà nước. Đó là các khoản về thu các khoản liên quan đến hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí; tịch thu sung quỹ nhà nước, thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước. Bên cạnh đó, quy định về những khoản của bản án, quyết định tuyên trả lại tiền, tài sản cho đương sự cũng thuộc diện cơ quan thi hành chủ động thi hành bởi xuất phát từ quan niệm rằng, việc tạm giữ, thu giữ những tài sản đó là do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trước đó với mục đích phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm thi hành án, nay theo quy định của pháp luật được tuyên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp thì nhà nước phải chủ động trả lại mà không đợi đương sự phải yêu cầu, hoặc khoản vật chứng, tài sản bị Toà án tuyên tịch thu tiêu huỷ thì không còn huộc quyền quyết định của đương sự, nên cũng giao cơ quan thi hành án chủ động thực hiện việc tiêu huỷ. Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng là nhằm mục đích đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án, cao hơn thế, là đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án, của pháp luật, và do tính chất khẩn cấp của việc áp dụng mà nhà nước cần chủ động thực hiện để phù hợp với mục đích của việc ban hành quyết định đó. Ngoài các khoản trên đây, thì các khoản còn lại thuộc diện người được thi hành án muốn buộc người phải thi hành án thi hành cho mình hoặc người phải thi hành án muốn được tự nguyện thi hành nghĩa vụ thông qua cơ quan thi hành án thì phải yêu cầu thi hành án. Các khoản đó rất đa dạng, từ việc thanh toán tiền, trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, tiền cấp dưỡng, đến buộc người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc, buộc thực hiện hành vi nhất định… Người được thi hành án cần lưu ý rằng có bản án, quyết định mà Tòa án, cơ quan có thẩm quyền tuyên mình là người được hưởng quyền và lợi ích không đồng nghĩa với việc cơ quan có thẩm quyền sẽ tự động đưa bản án, quyết định đó ra thi hành. Điều này xuất phát từ nhận thức rằng, giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án là hai giai đoạn riêng rẽ, mỗi giai đoạn có những nhiệm vụ riêng. Việc Toà án, cơ quan có thẩm quyền công nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án được thể hiện bằng phán quyết thông qua hình thức bàn án, quyết định. Tuy nhiên, có trong tay bản án, quyết định, người thắng kiện hoặc người được hưởng quyền và lợi ích hợp pháp theo bản án, quyết định hoàn toàn có quyền quyết định việc có làm đơn yêu cầu thi hành án hay không, yêu cầu thi hành vào thời điểm nào, yêu cầu thi hành những gì, đã có những thoả thuận gì với bên phải thi hành án, đã thi hành với nhau được những gì… Do đó, pháp luật dành quyền quyết định cho người được thi hành án thể hiện ý chí của mình bằng việc yêu cầu thi hành án. Vì vậy, tuỳ từng trường hợp cụ thể, đương sự đối chiếu với nội dung bản án, quyết định để loại trừ những việc thuộc diện cơ quan thi hành án dân sự chủ động thi hành, từ đó xác định những việc phải làm đơn yêu cầu thi hành án mà quyết định việc yêu cầu thi hành án. |
CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI |
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|
Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 12:57 PM |