Trở lại   Chợ thông tin Pháp luật Việt Nam > MỌI NGƯỜI CÙNG THẢO LUẬN > Hỏi - Đáp Sinh Viên Luật
Tên tài khoản
Mật khẩu


Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị

  #1  
Cũ 18-03-2013, 01:41 PM
tanxuanda tanxuanda đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 17
Mặc định Mọi người tham khảo và cho ý kiến giúp mình nhé

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Tình huống 1
Nội dung sự kiện
Trần Văn T và Nguyễn Thị P là chủ sở hữu hợp pháp của ngôi nhà số 32 phố X, quận Y, thành phố Z (đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất). Ngày 20/5/2007 vợ chồng T, P thỏa thuận bán ngôi nhà nói trên cho Phùng Văn Q, trú quán tại tỉnh H với giấy tờ gồm:
- 02 văn tự bán nhà (có đủ chữ kí của vợ chồng T, P và Phùng Văn Q). Hai văn tự này cùng được lập ngày 20/5/2007 nhưng ghi giá bán khác nhau (một văn tự ghi giá bán 800 triệu đồng và một văn tự ghi giá bán 210 triệu đồng);
- 01 giấy tờ gốc chứng nhận quyền sở hữu nhà của vợ chồng T, P và 01 trích lục bản đồ ngôi nhà nói trên.
Mặc dù việc mua bán nhà chưa làm thủ tục sang tên chuyển chủ nhưng ngày 10/02/2008, Phùng Văn Q đã đem bộ hồ sơ nhà đất nói trên đến ngân hàng thương mại cổ phần X để xin vay 500 triệu đồng với mục đích đầu tư vốn kinh doanh mặt hàng mĩ nghệ xuất khẩu. Do chưa làm thủ tục sang tên chuyển chủ đối với ngôi nhà cho Phùng Văn Q nên thể theo yêu cầu của ngân hàng thương mại X, vợ chồng T, P đã viết giấy ủy quyền cho Phùng Văn Q đem bộ giấy tờ nhà đất nói trên làm tài sản thế chấp để Phùng Văn Q vay tiền của ngân hàng thương mại X, với cam kết sẽ bàn giao căn nhà thế chấp cho ngân hàng này nếu Phùng Văn Q không trả được nợ ngân hàng khi đến hạn.
Ngày 15/02/2008 Phùng Văn Q đã được ngân hàng thương mại X cho vay 500 triệu đồng trong thời hạn 6 tháng và Phùng văn Q cho vợ chồng T, P vay lại 200 triệu đồng để mở cửa hàng buôn bán. Ngày 8/7/2008, Phùng Văn Q bị công an bắt vì buôn bán chất ma túy, do đó Q không có tiền trả nợ cho ngân hàng X khi đến hạn.
Ngày 1/8/2008, vợ chồng T, P đem bộ giấy tờ thứ hai của ngôi nhà số 32 nói trên đến xin vay vốn ở ngân hàng thương mại Y.
Bộ giấy tờ thứ hai gồm:
- 1 văn tự gốc đứng tên vợ chồng T, P là người mua ngôi nhà số 32;
- 1 giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh;
- 1 hợp đồng thế chấp ngôi nhà số 32 có thủ tục công chứng nhà nước.
Ngày 5/8/2009 ngân hàng thương mại Y chấp thuận cho vợ chồng T, P vay 400 triệu đồng với điều kiện thế chấp ngôi nhà số 32 nói trên trong thời hạn 3 tháng. Sau khi trả được 120 triệu đồng cho ngân hàng thương mại Y vào ngày hợp đồng vay đáo hạn (ngày 5/11/2008) vợ chồng T, P bỏ trốn nhưng đã bị công an bắt ngày 20/3/2009. Ngày 15/4/2009, ngân hàng thương mại Y phát đơn kiện vợ chồng T, P tại Tòa án nhân dân thành phố Z để yêu cầu giải quyết.




Tình huống 2
Nội dung sự kiện
Tháng 10/2009, anh Hòang Văn T đến chi nhánh ngân hàng công thương huyện C tỉnh V để xin vay và được chấp thuận cho vay một khoản tiền 500 triệu đồng, với điều kiện thế chấp ngôi nhà thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng T, trị giá 800 triệu đồng (hợp đồng thế chấp được chứng thực bởi công chứng viên Phòng công chứng số 1 tỉnh V, có đủ chữ kí của hai vợ chồng T).
Đến hạn thanh toán, do không có tiền trả nợ theo hợp đồng nên chi nhánh ngân hàng công thương huyện C đã làm thủ tục phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Việc phát mại nói trên bị vợ của T phản đối, với lí do chị ta không hề kí tên vào hợp đồng thế chấp. Sau khi được trưng cầu giám định chữ kí, cơ quan có thẩm quyền giám định đã kết luận rằng chữ kí trên văn bản hợp đồng thế chấp không phải là chữ kí của vợ T.
Do không phát mại được tài sản thế chấp, chi nhánh ngân hàng C làm đơn khởi kiện Hòang Văn T tại Tòa dân sự để yêu cầu giải quyết.



Tình huống 3

Nội dung sự kiện
Ngày 15/3/2009, ngân hàng thương mại cổ phần A (do ông T, chức vụ Tổng giám đốc làm đại diện) kí hợp đồng tín dụng cho Doanh nghiệp nhà nước B (do ông Q, chức vụ Giám đốc làm đại diện) vay số tiền 250 triệu đồng, thời hạn vay là 4 tháng với tài sản đem bảo lãnh theo hợp đồng bảo lãnh là ngôi nhà và 109 m2 đất ở được định giá 360 triệu đồng, thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của bà Nguyễn Thị H, 79 tuổi, hộ khẩu thường trú tại phường X, quận Y, thành phố V (tài sản đem bảo lãnh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1985 đứng tên bà Nguyễn Thị H). Hợp đồng bảo lãnh được lập ngày 12/3/2009 tại Phòng tư pháp quận Y có đủ chữ kí tay của người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng cổ phần A, người đại diện đương nhiên của Doanh nghiệp nhà nước B (ông Q) và bà Nguyễn Thị H nhưng không có phần thị thực và chữ kí, con dấu của phòng Tư pháp quận Y, nơi lập hợp đồng bảo lãnh. Trong thời gian hợp đồng vay đang còn hiệu lực, do vi phạm kỉ luật của cơ quan nên ông Q đã bị cách chức giám đốc.
Đến hạn thanh toán, vì không thấy bên vay trả tiền nên Ngân hàng cổ phần A đã làm thủ tục trích chuyển số tiền 150 triệu đồng từ tài khoản của Doanh nghiệp nhà nước B để thu hồi nợ, đồng thời gửi thông báo cho Doanh nghiệp này biết về việc chuyển tiền và yêu cầu Doanh nghiệp B cử người đại diện đến hội sở Ngân hàng để bàn thủ tục phát mại tài sản bảo lãnh. Sau khi nhận được thông báo, Doanh nghiệp B đã gửi văn bản phúc đáp cho Ngân hàng cổ phần A yêu cầu hòan trả lại số tiền 150 triệu vào tài khoản của Doanh nghiệp, với lí do Doanh nghiệp không hề sử dụng số tiền 250 triệu đồng mà ông Q đã nhân danh Doanh nghiệp để vay nợ Ngân hàng (bằng chứng là trong sổ sách kế toán của Doanh nghiệp B không hề phản ánh việc nhập quỹ số tiền nói trên).
Ngày 20/9/2009, ngân hàng cổ phần A làm thủ tục kê biên, niêm phong ngôi nhà là tài sản bảo lãnh nhưng bà Nguyễn Thị H không đồng ý, với lí do gia đình không có chỗ ở. Ngày 18/10/2009, Ngân hàng A làm đơn khởi kiện Doanh nghiệp B và bà Nguyễn Thị H tại Tòa kinh tế TAND thành phố V để yêu cầu giải quyết.



Tình huống 4

Nội dung sự kiện
Ngày 9/10/2009, chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh H kí hợp đồng tín dụng vơí công ty TNHH Hòang Minh do bà Trần Thị T làm đại diện. Hai bên thỏa thuận số tiền vay là 180 triệu đồng với thời hạn cho vay là 09 tháng theo lãi suất cho vay là 1,5%/ tháng.
Để ngân hàng có đủ cơ sở cho vay, công ty TNHH Hòang Minh (thông qua người đại diện là bà Trần thị T) đã nhờ ông Nguyễn Minh Q, trú tại phường Quang Trung, thị xã V, tỉnh H đứng ra bảo lãnh theo hợp đồng bảo lãnh kí ngày 11/10/2009 giữa ông Q với đại diện hợp pháp của Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh H (hợp đồng bảo lãnh được lập tại phòng công chứng nhà nước tỉnh H, có đủ chữ kí của các bên và có chữ kí, con dấu xác nhận của công chứng viên). Theo hợp đồng bảo lãnh này, ông Q cam kết đem tài sản của mình là ngôi nhà và mảnh đất có diện tích 200 m2 được định giá 420 triệu đồng để bảo đảm nghĩa vụ cho bà Trần Thị T vay số tiền 250 triệu đồng của Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh H.
Đến hạn thanh toán, do bên vay không trả được cho ngân hàng nên sau khi chuyển số nợ nói trên sang nợ quá hạn, chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh H đã làm thủ tục niêm phong tài sản bảo lãnh của ông Q để tiến hành phát mại theo quy định của pháp luật.



Tình huống 5

Nội dung sự kiện
Ngày 20/6/2008, Nguyễn Tuấn Hùng thỏa thuận mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở của gia đình ông Hòang Văn T (có hộ khẩu thường trú tại Huyện C, thành phố H) để vay tiền ngân hàng cổ phần X (hội sở tại thành phố H), với lời hứa khi vay được tiền sẽ cho gia đình ông T vay lại 200 triệu đồng để ông T sửa chữa căn nhà đang ở.
Để hợp thức hóa thủ tục vay vốn theo yêu cầu của Ngân hàng, ngày 22/6/2008 Nguyễn Tuấn Hùng cùng với ông Hòang Văn T đến hội sở ngân hàng X để kí hợp đồng bảo lãnh, sau đó nhờ quan hệ nên Nguyễn Tuấn Hùng đã xin được chữ kí và con dấu chứng thực của Phòng Công chứng nhà nước tỉnh K, nơi Nguyễn Tuấn Hùng đang công tác. Ngày 25/6/2008, căn cứ vào hợp đồng bảo lãnh đã được công chứng, ngân hàng cổ phần X kí hợp đồng tín dụng cho Nguyễn Tuấn Hùng vay số tiền 800 triệu đồng, với tài sản bảo lãnh được định giá 1,2 tỷ đồng trong thời hạn 12 tháng, lãi suất 1,25 % /tháng.
Đến hạn thanh toán, do Nguyễn Tuấn Hùng không trả được nợ cho Ngân hàng X nên ngân hàng này đã yêu cầu ông Hòang Văn T cho phép phát mại tài sản bảo lãnh là quyền sử dụng đất để thu hồi nợ. Gia đình ông Hòang Văn T không đồng ý cho ngân hàng phát mại với lí do sau khi vay được tiền, Nguyễn Tuấn Hùng không thực hiện lời hứa trước đây là cho gia đình ông vay lại 200 triệu đồng để sửa chữa nhà ở.
Ngày 12/8/2009, ngân hàng thương mại cổ phần X đã làm đơn khởi kiện Nguyễn Tuấn Hùng và người bảo lãnh là ông Hòang Văn T tại Tòa Dân sự tòa án nhân dân thành phố H.




Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 09:33 PM


Diễn đàn được xây dựng bởi SangNhuong.com

© 2008 - 2024 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.