#1
|
|||
|
|||
Tòa buộc phải trả nhà là đúng hay sai ?
Tháng 11/2002 bà LHL khởi kiện đòi bà LTH phải trả lại nhà đất cho ở nhờ. Ngày 17/4/2003 Tòa thụ lý, cùng ngày Tòa ra Thông báo tạm đình chỉ do có nhân tố nước ngoài. Tòa chỉ ghi tạm đình chỉ vụ án “đòi lại nhà đất cho ở nhờ” chứ không ghi rõ đó là nhà đất nào, trong khi Bị đơn LTH có tới 2 căn nhà : 1 ở trong hẻm có số 300/4 và 1 ở mặt tiền có số 294. Năm 2007 vụ án được khởi động lại và Tòa xác định bà LHL đòi lại nhà đất 294 ! Tuy nhiên, thời điểm này nhà đất 294 đã không còn thuộc QSD của bà LTH bởi bà đã được cấp GCNQSDĐ nhà này vào năm 2005, sau đó bà đã chuyển nhượng QSDĐ nhà 294 cho vợ chồng đứa con trai là A và C, mọi thủ tục đều tuân thủ qui định của Pháp luật, A và C cũng đã đăng ký QSDĐ của mình tại Văn phòng đăng ký QSDĐ từ năm 2005. Thế nhưng Tòa vẫn xác định bà LTH là Bị đơn, còn A, C là người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan. Nhân tố nước ngoài trong vụ án là Ông PVT, chồng đã ly dị từ năm 1971 của Nguyên đơn LHL, đã ra nước ngoài sinh sống từ 1991. Tòa xác định ông này có tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tới nhà đất 294. Bà LHL cho rằng nhà 294 của bà trước kia không có số, nguồn gốc của Cha bà cho vợ chồng bà nhưng vợ chồng bà cho người khác thuê làm tiệm may từ trước 1975, sau khi vợ chồng bà ly dị năm 1971 thì bà quản lý nhà này và bà chỉ cho bà LTH mượn ở nhờ từ năm 1976, việc cho mượn chỉ nói miệng chứ không làm giấy tờ. Bà LHL có chứng cứ là Biên bản họp tổ dân phố với ý kiến của 3 nhân chứng xác nhận nguồn gốc đất nhà 294 là của cha bà LHL và Văn bản ghi lời khai của Ông PVT từ Mỹ gởi về cho Tòa khẳng định ông không hề bán nhà cho vợ chồng bà LTH. Còn bà LTH thì cho rằng sau khi ly dị năm 1971, bà LHL bỏ đi mất nên năm 1972 ông PVT bán nhà 225 ( số trước kia của nhà 294 ) cho vợ chồng bà để mang 3 đứa con về quê nội ở Thủ Đức sinh sống, việc mua bán có làm giấy tay, do chồng bà cất giữ, nay ông đã mất và giấy này đã thất lạc. Từ đó gia đình bà đã sử dụng nhà 225, tới năm 2001 đổi thành nhà 294. Năm 2005 bà được cấp GCNQSDĐ nhà 294 và sau đó bà đã chuyển nhượng cho vợ chồng đứa con trai. Chứng cứ của Bà LTH là Biên bản làm việc của UBND Phường xác nhận nhà 294 trước có số 225, do vợ chồng bà LTH sử dụng từ trước 1975, đăng ký sổ bộ năm 1989. UBND Phường cũng khẳng định Phường chưa bao giờ nhận được đơn thư tranh chấp nhà 294, chỉ nhận được đơn của bà LHL đòi lại 1 nền đất 5m x 12m trong khuôn viên nhà 300/4 của bà LTH và đã lập biên bản làm việc vào ngày 23/4/2003, do đó việc Phường đề nghị cấp GCNQSDĐ đối với nhà 294 cho bà LTH năm 2005 là đúng pháp luật. UBND Phường còn khẳng định thêm, Ông PVT trước khi xuất cảnh đã tới Phường ký giấy cam kết không còn bất động sản ở Việt Nam. Một chứng cứ khác của Bị đơn là Đơn xin phép hành nghề khoan giếng năm 1975 của chồng bị đơn, ghi rõ ràng địa chỉ của ông là nhà 225, có xác nhận của công an địa phương. Tòa nhận định GCNQSDĐ cấp cho Bị đơn LTH năm 2005 là trái pháp luật, cần thu hồi hủy bỏ vì cấp khi nhà 294 đang có tranh chấp và tòa đang thụ lý, chỉ tạm đình chỉ. Do vậy, Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa Bị đơn LTH với A và C cũng bị vô hiệu toàn bộ. Tòa chấp nhận lời khai cùng chứng cứ của Nguyên đơn LHL, xác định nhà 294 là nhà của bà LHL cho bà LTH ở nhờ nên buộc bà LTH cùng vợ chồng A và C phải trả lại toàn bộ nhà đất 294 cho bà LHL ! Bổ sung ( ngày 03/8/2010 ) : Theo các bản án của Tòa thì Tòa thụ lý vụ án ngày 17/4/2003 nhưng Biên bản hòa giải lần 1 lại có ngày 28/3/2003. Theo bạn, phán quyết của Tòa là đúng hay sai ? |
CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI |
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|
Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 07:29 PM |