Trở lại   Chợ thông tin Pháp luật Việt Nam > MỌI NGƯỜI CÙNG THẢO LUẬN > Hỏi - Đáp Sinh Viên Luật
Tên tài khoản
Mật khẩu


Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị

  #1  
Cũ 18-03-2013, 01:50 PM
quanthoigian quanthoigian đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 13
Mặc định Mối quan hệ gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Thứ nhất, Quan hệ giữa vợ và chồng:

Sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội dung của quan hệ giữa vợ và chồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ nhân thân, các quyền và nghĩa vụ tài sản, trong đó nghĩa vụ và quyền nhân thân là nộ dung chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Xuất phát từ mục đích của việc xác lập quan hệ hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Do đó, chúng ta xét quan hệ giữa vợ và chồng trong mối quan hệ gia đình dựa trên quyền, nghĩa vụ nhân thân và quyền nghĩa vụ về tài sản.

*Về nhân thân.

Theo góc độ Luật Dân sự thì: “Quyền nhân thân là một khái niệm pháp lý chỉ quyền năng dân sự của cá nhân được pháp luật ghi nhận. Quyền nhân thân gắn liền với những giá trị tinh thần của con người và về nguyên tắc không thể chuyển giao cho người khác.”

Quyền nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng chính là chuẩn mực đạo đức, các cư xử mang tính tự nhiên và truyền thống giữa vợ và chồng.

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 thì nghĩa vụ, quyền nhân thân vợ chồng có những nội dung cơ bản như sau:

Vợ chồng yêu thương, chung thủy, quí trọng, chăm sóc, giúp đỡ lần nhau cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững (Điều 18 LHNGĐ). Yêu thương và chung thủy giữa vợ và chồng là những yếu tố, nền tảng vững chắc để tồn tại quan hệ vợ chồng vững bền, vợ chồng cần có sự quí trọng, động viên, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau cả về vật chất và tình cảm.

Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình (Điều 19 LHN&GĐ). Nôi dung này xuất phát từ quyền hiến định qui định tại Hiến pháp 1992 (Công dân, nam và nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình). Thực hiện quyền bình đẳng giữa vợ, chồng không chỉ là quyền được ghi nhận bởi pháp luật mà nội dung quyền này đang được xã hội, pháp luật đề cao và ngày càng đưa ra nhiều biện pháp để thực hiện nội dung này trên thực tiễn. Nội dung bình đẳng giữa vợ và chồng thể hiện ở các nội dung: bình đẳng trong việc chăm sóc, nuôi dạy con; bình đẳng về kinh tế gia đình; bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với giao dịch hợp pháp do một trong hai bên hoặc cả hai bên thực hiện vì mục đích sinh hoạt thiết yếu của gia đình; bình đẳng với nhau trong việc thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình.

Vợ chồng phải tôn trọng các quyết định liên quan đến quyền nhân thân của vợ, chồng. Nội dung này bao gồm nhiều quyền nhân thân khác nhau của từng cá nhân trong xã hội được pháp luật ghi nhận, bao gồm: Lựa chọn nơi cư trú của vợ, chồng (Điều 20); Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng(Điều 21); Giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt (Điều 23); Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng (Điều 22); Đại diện cho nhau giữa vợ, chồng (Điều 24). Việc thực hiện tốt nội dung các quyền này của vợ, chồng là điều kiện để đảm bảo hạnh phúc gia đình.

*Về tài sản.

Do sự liên kết đặc biệt của vợ chồng đã tạo nên một thể chế cơ bản của xã hội là gia đình. Để có cơ sở pháp lý cho hành vi ứng xử của vợ chồng trong các mối quan hệ liên quan đến tài sản nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng loại tài sản đó. Cũng như phù hợp với phong tục, tập quán của người Việt Nam với các quan điểm: “của chồng, công vợ”, “thuận vợ, thuần chồng tát biển đông cũng cạn” thì pháp luật HN&GD Việt Nam công nhận: Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, bao gồm: tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận (Điều 27).

Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng và vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng (Điều 25, 28).

Và pháp luật HN&GĐ cũng thừa nhận việc vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng; đồ dùng, tư trang cá nhân. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung (Điều 32).

Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng. Vợ, chồng tự quản lý tài sản riêng; trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng (Điều 33).

Pháp luật cũng qui định cho vợ chồng có quyền thỏa thuận, yêu cầu chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng có yêu cầu chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết trừ trường hợp việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận. Khi đã chia tài sản chung vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng Điều 29,30).

Ngoài những nội dung nghĩa vụ và quyền tài sản giữa vợ và chồng nêu trên thì pháp luật HN&GĐ Việt Nam còn qui định Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế, tạm hoãn chia di sản nhằm bảo đảm cuộc sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình và Quyền quản lý di sản khi vợ hoặc chồng chết trước tại Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.

Từ những nội dung nêu trên có thể nhận định, pháp luật ghi nhận sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền của mỗi bên trước, trong và sau quá trình hôn nhân về cả nhân thân và tài sản. Những chính sách về gia đình giữa vợ và chồng đã góp phần tạo điều kiện cho việc thực hiện bảo đảm xây dựng gia đình truyền thống của Việt Nam theo xu hướng văn minh, hiện đại, tiến bộ.

(còn nữa...)
Trả lời với trích dẫn



  #2  
Cũ 18-03-2013, 01:50 PM
forimex forimex đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 13
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

(Tiếp theo)

Thứ hai, Quan hệ giữa cha mẹ và con.

Quan hệ cha mẹ và con xuất phát từ sự kiện sinh đẻ hoặc việc nhận nuôi con nuôi. Sự kiện sinh đẻ (cả trong trường hợp sinh con tự nhiên và sinh con theo phương pháp khoa học) của người phụ nữ sẽ làm phát sinh quan hệ giữa người phụ nữ đồng thời cũng là căn cứ rõ ràng nhất để xác định người chồng của người phụ nữ đó là cha của đứa trẻ hoặc việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận nuôi con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hơp với đạo đức xã hội. Đồng thời, việc nhận nuôi con nuôi cũng nhằm đảm bảo cho người già yeus cô đơn được quan tâm, nuôi dưỡng, chăm sóc.

Pháp luật HN&GĐ không chỉ ghi nhận nội dung sự kiện đó mà còn qui định cụ thể cả nội dung quyền và nghĩa vụ giữa những người tham gia vào các nội dung đó về cả vấn đề nhân thân và tài sản.

*Về nhân thân.

Pháp luật ghi nhận: Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều 34).

Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Pháp luật Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ (Điều 35).

*Về tài sản.

Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập, hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con (Điều 36, 37). Ngoài ra pháp luật còn ghi nhận quyền cha mẹ có quyền đại diện, Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, Quản lý tài sản riêng của con, Định đoạt tài sản riêng của cha mẹ với con chưa thành niên (Điều 39, 40, 41, 45, 48). Trong trường hợp con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì cha mẹ phải bồi thường thiệt hại (Điều 40).

Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và các thu nhập hợp pháp khác. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ (Điều 36, 44).

Với bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng thì pháp luật cũng ghi nhận bố dượng mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống chung với mình và con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình. Bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau (Điều 38).

Pháp luật dân sự Việt Nam ghi nhận cha mẹ và con có quyền được thừa kế tài sản của nhau khi cha, mẹ hoặc con chết. Việc hưởng thừa kế của cha mẹ và con có thể xác định theo nội dung di chúc do người chết để lại hoặc theo pháp luật (cha mẹ, con được xác định là hàng thừa kế thứ nhất).

(Còn nữa...)
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 08:06 AM


Diễn đàn được xây dựng bởi SangNhuong.com

© 2008 - 2024 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.