PDA

View Full Version : Củi đậu đun hột đậu


coso_ngocthach
08-03-2013, 10:32 AM
Đời Tam Quốc (220-264), Tào Thực tự Tử Kiến là con thứ ba của Tào Tháo, vốn có tài làm thơ hay, được tiếng là đệ nhất thi nhân đời Tần-Hán nhưng có tính phóng túng. Tào Tháo thương lắm nhưng không thể truyền ngôi cho một chàng giàu tâm hồn nghệ sĩ ấy được.
Tháo chết, truyền ngôi cho con cả là Tào Phi. Thực bản tính ngông nghênh bất phục, có ý chống lại ông vua anh. Phi giận lắm, truyền người bắt Thực đến định làm tội. Nhưng vì yêu tài Thực nên Phi bảo:
- Ta với mày tuy tình anh em nhưng nghĩa vua tôi, sao dám cậy tài miệt lễ? Ngày tiên quân còn, mày thường đem văn chương khoe giỏi lòe đời. Ta rất nghi, có lẽ mày nhờ người khác làm giúp. Vậy giờ đây ta ra hạn: đi bảy bước phải làm xong một bài thơ. Nếu làm được thì tha tội chết; bằng không xong, ta quyết chẳng dung.
Thực nói:
- Xin ra đề cho.
Trên điện sẵn có treo bức tranh thủy mặc, vẽ hai con trâu chém nhau bên bức tường đất. Một con rơi xuống giếng chết. Tào Phi trỏ vào bức tranh, bảo:
- Hãy lấy bức họa kia làm đề. Nhưng trong thơ cấm phạm vào những chữ "Ngưu", "Đẩu", "Tường", "Trụy", "Tỉnh", "Tử" (Trâu, chọi, tường, rơi, giếng, chết).
Thực đi khoan thai. Vừa hết bảy bước, liền cất tiếng ngâm:
Hai tấm thân đi đường,
Trên đầu bốn khúc xương.
Gặp nhau tựa sườn núi.
Bỗng đâu nổi chiến trường.
Đôi bên đua sức mạnh,
Một địch lăn xuống hang.
Đâu phải thua kém sức,
Chẳng qua sự lỡ làng.
Nguyên văn:
Lưỡng nhục tề đạo hành,
Đầu thượng đới ao cốt.
Tương ngô do sơn hạ,
Huất khởi tương đường đột.
Nhị địch bất câu cương,
Nhất nhục ngọa thổ quật.
Phi thị lực bất hư,
Thịnh khí bất tiết tất.
Tào Phi cùng tất cả quần thần đều giựt mình, nức nở khen. Phi lại hỏi:
- Bảy bước thành thơ, ta còn cho là nhàm. Mày có thể ứng khẩu đọc ngay một bài được chăng?
Thực đáp:
- Xin ra đề cho.
Phi nói:
- Ta với mày là anh em. Cứ lấy câu đó làm đầu đề. Nhưng cấm dùng hai chữ "Huynh", "Đệ".
Thực chẳng cần nghĩ ngợi một giây, ứng khẩu đọc ngay:
Củi đậu đun hột đậu
Đậu trong nồi khóc kêu:
Cùng sinh trong một gốc,
Bức nhau chi đến điều.
Nguyên văn:
Chữ đậu nhiên đậu cơ,
Đậu tại phẩu trung khấp.
Bản thị đồng căn sinh,
Tương tiễn hà thái cấp.
Phi nghe cảm động, sa nước mắt, liền tha cho, nhưng giáng Tào Thực làm An Hương Hầu.
Ở Việt Nam trong thời Tây Sơn (1771-1802), hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ xuýt đánh nhau để tranh quyền. Nguyễn Nhạc yếu thế, phải khóc nói với em:
- Bì oa chữ nhục, đệ tâm hà nhẫn?
Nghĩa là: nồi da nấu thịt, lòng em sao nỡ? Nên Nguyễn Huệ cảm động rồi cả hai hòa nhau.
Ở tỉnh Bình Định, mỗi khi người ta đi săn được hươu nai gì thì lột da ra làm nồi mà nấu thịt. Do đó ca dao Bình Định có câu:
Da nai mà nấu thịt nai,
Việc đời như thế không ai động lòng.
Thịt nai mà chín bên trong,
Da nai cũng cháy còn mong nỗi gì!
Cảm động lời nói của Nguyễn Nhạc, người Bình Định đem lời đó diễn bằng câu ca dao:
Lỗi lầm anh vẫn là anh,
Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em?
Đời nhà Nguyễn (1802-1945) vua Tự Đức giết anh là Hồng Bảo để củng cố địa vị ngai vàng của mình. Một hôm, trong một buổi chầu, nhà vua vô ý để răng cắn nhằm lưỡi mới khiến quần thần làm bài thơ chơi, nhưng trong thơ cấm dùng tiếng "Răng", "Lưỡi".
Đây là bài thơ của cụ Nguyễn Hàm Ninh:
Ngã sinh chi sơ nhữ vị sinh,
Nhữ sinh chi hậu ngã vi huynh.
Bất tư cộng hưởng trân cam vị;
Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình.
Tạm dịch:
Thuở tớ sinh ra, mày chửa sinh,
Mày sinh sau tớ, tớ là anh.
Ngọt bùi chẳng nghĩ cùng nhau hưởng,
Xương thịt đành tâm nỡ dứt tình.
Nhà vua khen hay, thưởng một chữ một nén vàng; nhưng vì cho bài có ý "móc", nên bắt phạt mỗi chữ đánh một roi.
"Củi đậu đun hột đậu", "Nồi da xáo thịt", "Răng cắn lưỡi" thành ngữ điển tích này đều có một ý nghĩa như nhau.

Lâu lắm cũng chưa có bài nào lên diễn đàn. Cái nắng vàng vọt cuối ngày sắp tắt. Tôi cũng góp nhặt vài câu chuyện xưa để gởi đến diễn đàn. Mong rằng đây cũng là món quà nhỏ gởi đến anh em

cn-hcm
08-03-2013, 10:32 AM
Đọc bài của anh vietvovi tôi cảm thấy lòng bùi ngùi và liên tưởng tới một sự việc, một hiện tượng như đang tồn tại ở đâu đó xung quanh mình, Trong lúc rảnh rỗi nhớ tới một sự kiện cũng trong truyện TAM QUỐC DIỄN NGHĨA mà có là ai cũng biết, đó là sự kiện Gia Cát Lượng gạt lệ chém đầu Mã Tốc:

Mã Tốc là một viên tướng của nước thục, với Gia Cát Lượng có tình huynh đệ rất sâu sắc.
Nhai Đình là yết hầu của Hán Trung. Hán Trung là địa bàn chiến lược của nước Thục. Gia Cát Lượng hiểu rất rõ tầm quan trọng của Nhai Đình, nên khi cử Mã Tốc trấn giữ, đã bắt ông này phải viết bản quân lệnh, nếu để mất là phải chém đầu.

Mã Tốc vốn là một thư sinh, bàn việc binh trên giấy còn khả dĩ, không hề có một chút kinh nghiệm thực chiến.

Mã Tốc sau khi tới Nhai Đình đã chống lệnh, không nghe lời can gián, lập trại ở trên núi, cuối cùng đã bị Tư Mã Ý trước chặn đường thủy, lại phóng hỏa đốt núi, kết cục là Mã Tốc bại trận thảm hại tại Nhai Đình, 25 vạn quân Thục bị Tư Mã Ý cùng 2 con trai chia binh bao vây chặt, đánh cho tan tác, cuối cùng nhờ Tư Mã Ý chủ động mở một góc trận tha cho tàn quân Thục rút lui, Mã Tốc mới được toàn mạng trở về, Nhai Đình được trao cho quân Ngụy một cách dễ dàng.

Quân lệnh như sơn, vì Mã Tốc đã chống lệnh mà dẫn đến thất bại ở Nhai Đình, vì đã viết bản quân lệnh, nếu để mất là phải chém đầu.Vì vậy dù có tình huynh đệ sâu sắc, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải gạt nước mắt ra lệnh chém đầu Mã Tốc để thiết quân luật.

Nói đến đây lòng lại bùi ngùi, một chút tản mạn cùng anh vietvovi.