PDA

View Full Version : Về điều 82 bộ luật TTDS : nguồn chứng cứ


aumy.wood
30-07-2012, 04:23 PM
theo khoản 1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; theo tôi hiểu những tài liệu rách nát không còn đọc được đầy đủ nội dung ghi trên đó thì không được coi là chứng cứ. Vì những tài liệu này cũng không được phép công chứng chứng thực (nghị đinh 75/2000 NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2000 về công chứng, chứng thực Điều 55 khoản 2 điểm b). Tôi hiểu như vậy liệu có bị tòa bác bỏ không?
Cũng theo điều 82 BLTTDS khoản 3 lời khai của đương sự; Căn cứ vào các trích lục do tòa cung cấp tôi thấy những lời khai này mâu thuẫn nhiều tình tiết có thể chứng minh được đó là sự dối trá. Vậy đương sự khai man, tòa không thấy điều đó nhưng nếu chứng minh được (trường hợp tòa cho phát biểu) thì đương sự phải chịu trách nhiệm gì. Nếu nhiều tình tiết được chứng minh về bản khai của đương sự là dối trá thì bản khai đó có bị hủy bỏ không? Khi đó đương sự tiếp tục "sáng tác" thì có phải tiếp tục tự điều tra tiêp?
Đây là những tình huống có thực rất mong được cùng các bạn trên diễn đàn góp ý cho chân lý thêm sáng. Xin chân thành cảm ơn

longdatautovol
30-07-2012, 04:23 PM
1. “các tài liệu đọc được” theo quy định tại khoản 1 Điều 82 của Bộ luật tố tụng dân sự được xác định là nguồn chứng cứ. Bộ luật tố tụng dân sự không có quy định “các tài liệu đọc được” là các tài liệu như thế nào? Ví dụ như có thể có tài liệu chỉ đọc được một phần, có tài liệu chỉ còn đọc được một vài câu hoặc một vài chữ...Theo tôi thì “các tài liệu đọc được” chỉ cần còn đọc được thì được coi là nguồn của chứng cứ theo như quy định của khoản 1 Điều 82 BLTTDS.
Khoản 1 Điều 83 BLTTDS quy định: “Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.”
Như vậy: các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ khi thoả mãn một trong các trường hợp sau:
- Là bản chính
- Bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp
- Do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận
Bạn cho rằng những tài liệu rách nát không còn đọc được đầy đủ nội dung ghi trên đó thì không được coi là chứng cứ. Lý do bạn đưa ra là vì những tài liệu này cũng không được phép công chứng chứng thực (nghị đinh 75/2000 NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2000 về công chứng, chứng thực Điều 55 khoản 2 điểm b).
Theo tôi lý do bạn đưa ra là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 83 BLTTDS.
Trường hợp tài liệu rách nát (bản chính) không còn đọc được đầy đủ nội dung ghi trên đó và cũng không được phép công chứng chứng thực và tài liệu này là tài liệu gốc, tuy nhiên tài liệu này lại đọc được một nội dung nào đó ví dụ như thể hiện được ngày tháng ban hành văn bản đó hoặc thể hiện được Chủ thể đã ban hành văn bản đó hoặc thể hiện được mối liên hệ với các văn bản khác có liên quan...
Nói tóm lại tài liệu rách nát đó nếu vẫn có một giá trị chứng minh nhất định (có thể khai thác được về giá trị lịch sử thời điểm phát hành văn bản đó, Cơ quan tổ chức đã ban hành, mục đích ký kết, ban hành...) thì những thông tin có thể khai thác được từ bản chính tài liệu rách nát đó vẫn được coi là nguồn của chứng cứ được quy định tại khoản 1 Điều 82 của BLTTDS và có thể được xác định là chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 83 của BLTTDS; đương nhiên nó có được coi là chứng cứ hay không thì phải thỏa mãn Điều 81 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Nếu một tài liệu rách nát không còn đọc được nội dung gì cả, trường hợp những thông tin đã được ghi trên tài liệu rách nát này không thể xác định được bằng mắt thường thì có thể có trường hợp khi giám định hoặc bằng các phương tiện khoa học kỹ thuận người ta có thể khai thác được một số thông tin nhất định. Tùy trường hợp nó sẽ có ý nghĩa, giá trị chứng minh nào đó.
Nói chung là việc xác định chứng cứ và đánh giá chứng cứ là việc của các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 96 BLTTDS), các đương sự có quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh (Điều 6 BLTTDS).
Bạn có quyền bác bỏ những gì mà bạn cho là không phải chứng cứ mà các đương sự khác cung cấp và có nghĩa vụ đưa ra những căn cứ để chứng minh cho nhận định của mình. Nếu bạn không đưa ra được những căn cứ để chứng minh thì Tòa án sẽ bác bỏ ý kiến đó của bạn.

2. Vấn đề thứ hai bạn hỏi thì đương sự đó có thể sẽ bị Tòa án xử lý như theo quy định tại Điều 385 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trích điều 385 BLTTDS:
“Điều 385. Biện pháp xử lý người có hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị Toà án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính hoặc khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật:
a) Làm giả, huỷ hoại những chứng cứ quan trọng gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án của Toà án;
b) Khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật;
c) Từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu;
d) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người làm chứng ra làm chứng hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối;
đ) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người giám định thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định kết luận sai với sự thật khách quan;
e) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người phiên dịch thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người phiên dịch dịch không trung thực, không khách quan, không đúng nghĩa khi dịch;
g) Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tiến hành tố tụng; đe doạ, sử dụng vũ lực hoặc có hành vi khác cản trở người tiến hành tố tụng thực hiện các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ do Bộ luật này quy định;
h) Các hành vi vi phạm khác mà pháp luật có quy định.
2. Cơ quan công an có nhiệm vụ thi hành quyết định của Toà án tạm giữ hành chính người có hành vi vi phạm.”

Các đương sự có quyền khai nhận các nội dung trong bản tự khai của mình hoặc trong biên bản lấy lời khai để chứng minh cho yêu cầu của mình. Trên thực tế thì những lời khai của các đương sự không phải lúc nào cũng được coi là chứng cứ và được Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không.
Như tôi đã nói ở trên, các đương sự có quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình.
Để giải quyết vụ án đúng pháp luật, Tòa án phải đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.

Xin trao đổi với bạn một số ý kiến của tôi.
Chúc bạn thành công!

yensaokh
30-07-2012, 04:23 PM
Trong vụ án dân sự thì đương sự có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ cho Tòa và phải tự chịu trách nhiệm trong việc không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ. Do đó, đương sự có bao nhiêu chứng cứ, cứ nộp hết cho Toà. Còn việc đánh giá chứng cứ như thế nào là chuyện khác, thuộc thẩm quyền của HĐXX nhưng đương sự vẫn có quyền khiếu nại nếu việc đánh giá chứng cứ không khách quan hoặc không phù hợp với qui định của Pháp luật.
Vì những lẽ đó, ta thấy :
1- Tài liệu, giấy tờ chỉ được coi là chứng cứ khi đọc được, đó là qui định của pháp luật ( khoản 1 điều 82 BLTTDS ), cho nên nếu giấy tờ ố nhòe hay bị rách, chữ còn chữ mất thì không được coi là chứng cứ. Cần nhớ đọc được có nghĩa là phải đọc được toàn văn câu văn trong giấy đó chứ không phải đọc được theo kiểu suy ra, ví dụ Cộng hoà....( bị mất )...hội......( bị mất ) Việt Nam thì suy ra toàn văn là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu thật sự tài liệu bị rách nát, chữ còn chữ mất mà Tòa vẫn xem là chứng cứ thì bạn có quyền vận dụng khoản 1 điều 82 để đấu tranh quyết liệt.
2- Lời khai của đương sự ( cả bên Nguyên lẩn bên Bị ) cũng là 1 nguồn chứng cứ theo qui định tại khoản 3 điều 82 BLTTDS. Đương nhiên lời khai của 2 bên không trùng nhau thì mới dẫn tới tranh chấp, do đó mạnh bên nào bên đó trình bày lời khai. Ở phiên Tòa có phần tranh luận, hãy tập trung chứng minh trình bày lời khai của đối phương là sai sự thật, nếu có chứng cứ thuyết phục, quan điểm tranh luận của bạn sẽ được Hội đồng xét xử chấp nhận, đồng nghĩa với bác nội dung trình bày lời khai của bên kia. Xưa nay tuy pháp luật ( điều 385 BLTTDS ) có qui định việc bồi thường trong án dân sự, thậm chí xử lý hình sự, nhưng chưa cụ thể hoá, cho nên cá nhân tôi chưa từng thấy đương sự hay nhân chứng nào trình bày sai sự thật để khởi kiện, để làm chứng mà bị bồi thường hoặc bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2010 Luật bồi thường Nhà Nước có hiệu lực thì việc bồi thường, xử lý hình sự trong án dân sự sẽ được thực hiện. Trân trọng.